Identification of spider mites (Acari: Tetranychidae) by DNA sequences: A case study in northern Vietnam

Share Embed


Descripción

TAÛP CHÊ KHOA HOÜC, Âaûi hoüc Huãú, Säú 19, 2003






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM
Phan Thị Minh Lý, Lại Xuân Thủy

Trường Đại học Kinh tế,Đại học Huế


Lần đầu tiên được áp dụng tại Pháp năm 1954, đến nay thuế giá trị gia
tăng (GTGT) đã được 118 nước trên thế giới sử dụng thay cho thuế doanh thu
(DT)[1], trong đó có Việt Nam kể từ năm 1999. Điều đó cho thấy sự phát
triển rất nhanh chóng và rộng rãi của hình thức thuế này trên phạm vi toàn
thế giới. Chính vì vậy, nó đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Ở Việt Nam thuế GTGT đã áp dụng được gần 5 năm và được nhiều chuyên gia
quan tâm tìm hiểu trên nhiều góc độ khác nhau ngay từ khi Luật thuế GTGT
mới được ban hành. Ông Bùi Đường Nghiêu với bài viết về «Thuế GTGT ở Việt
Nam - Những bất cập và ảnh hưởng khi áp dụng » đã dự báo không ít những khó
khăn có thể gặp phải về mặt kỹ thuật và ảnh hưởng tiêu cực của thuế GTGT
khi mới triển khai áp dụng đối với doanh nhgiệp, Nhà nước và cả nền kinh
tế. Trong bài viết về «Cần hiểu đúng về thuế VAT. Miễn thuế và thuế suất 0%
có giống nhau không ? » của Nguyễn Khắc Thành & Richard Irwin, bài «Người
sản xuất và người tiêu dùng ai là đối tượng chịu thuế ? » của TS. Vũ Công
Ty, các tác giả đã bàn về những vấn đề cơ bản của thuế GTGT: thuế suất và
đối tượng chịu thuế GTGT. Sau một thời gian thực hiện, Luật thuế GTGT đã
thu được những thành công to lớn nhưng cũng bộc lộ những bất cập. Nhiều bài
viết, báo cáo, đánh giá của các nhà nghiên cứu cũng như quản lý thuế đã đề
cập đến vấn đề này, chẳng hạn bài tham luận của GS.TSKH. Tào Hữu Phùng về
«Một số ý kiến bổ sung, điều chỉnh Luật thuế GTGT » tại Diễn đàn doanh
nghiệp năm 2000, bài của TS. Vũ Công Ty về «Thuế GTGT. Cần xử lý kịp thời
những bất cập » v.v.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung khẳng định lại một lần nữa
tính ưu việt của thuế GTGT so với thuế DT, những ảnh hưởng kinh tế khi đối
tượng áp dụng thuế bị hạn chế và vấn đề thuế suất thuế GTGT. Đây là ba điểm
mà theo chúng tôi là cần đặc biệt quan tâm khi nghiên cứu về thuế GTGT.
1. Tính ưu việt của thuế GTGT: Theo các nhà nghiên cứu, một loại thuế
được coi là lý tưởng khi nó thỏa mãn bốn tiêu chuẩn: (1) đơn giản về mặt kỹ
thuật, tức là không tạo ra cơ hội trốn thuế; (2) hiệu quả về mặt tài chính,
tức là có năng suất cao; (3) công bằng về mặt xã hội, tức là đưa lại kết
quả phân phối lại của cải xã hội và (4) có tác dụng khuyến khích về mặt
kinh tế, tức là có tác động thúc đẩy kinh tế phát triển [2]. Xét theo bốn
tiêu chuẩn này, thuế GTGT thể hiện tính hơn hẳn của nó so với thuế DT. Thứ
nhất, về kỹ thuật thuế GTGT đơn giản hơn thuế DT. Nếu thuế DT bao gồm 11
mức thay đổi từ 0% đến 40% thì thuế GTGT chỉ bao gồm 3 mức (không kể thuế
suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu) thay đổi từ 5% đến 20%. Điều này giúp
giảm đáng kể hiện tượng trốn thuế. Thứ hai, thuế GTGT hiệu quả hơn về tài
chính thể hiện ở cơ sở tính thuế của nó rộng hơn. Về nguyên tắc, thuế GTGT
đánh trên tất cả mọi hàng hóa, dịch vụ (HHDV) tiêu dùng cuối cùng (trừ
những trường hợp miễn thuế). Thứ ba, về mặt xã hội thuế GTGT công bằng hơn
nhờ vào cơ chế đánh thuế của nó với mức thuế suất thấp đánh vào các mặt
hàng tiêu dùng thông thường và mức cao đánh vào các mặt hàng xa xỉ, nhờ đó
nó góp phần vào phân phối lại thu nhập. Thứ tư, thuế GTGT có tác dụng
khuyến khích hơn về mặt kinh tế nhờ vào cơ chế khấu trừ thuế đầu vào và
miễn thuế đối với hàng xuất khẩu.
Đặc biệt ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh một ưu thế quan trọng nổi bật
của thuế GTGT, đó là thuế GTGT giải quyết được vấn đề đánh thuế trùng lặp
của thuế DT, bởi vì nó chỉ đánh một lần duy nhất trên giá trị của HHDV tiêu
dùng cuối cùng không phụ thuộc vào độ dài của chu kỳ sản xuất và tiêu thụ
các HHDV này.
Để minh họa cho tính trung lập này của thuế GTGT, một cách khái quát
và để đơn giản, chúng ta giả sử rằng trong nền kinh tế :
- chỉ có 2 giai đoạn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với n bước;
- A, B, ..., M, N là giá trị chưa bao gồm thuế của sản phẩm ở các bước
từ 1 đến n;
- t là thuế suất đánh trên giá trị chưa bao gồm thuế, để đơn giản thuế
suất bằng nhau đối với tất cả các bước;
- T là tổng thuế DT thu được;
- T' là tổng thuế GTGT thu được.
Theo nguyên tắc đánh thuế DT, tổng số thuế thu được là:
T = At+Bt +...+ Mt + Nt + A(t2 + t3 + ... + tn) + B(t2 + t3 +...+ tn-
1) +...+ Mt2 + Nt
Theo nguyên tắc đánh thuế GTGT, tổng số thuế thu được là:
T' = Nt
Chúng ta thấy rõ sự chênh lệch rất lớn về số thu giữa hai loại thuế
nếu áp dụng cùng một thuế suất (T – T'). Sự khác nhau này là do thuế DT
đánh lặp đi lặp lại nhiều lần cùng những thành phần trong giá và thuế DT
của giai đoạn trước được tính gộp vào cơ sở tính thuế của giai đoạn sau.
Như vậy chu kỳ sản xuất càng dài thì thuế DT đánh trùng lặp càng nhiều lần.
Ngược lại thuế GTGT chỉ đánh một lần trên giá trị cuối cùng của sản phẩm
tiêu dùng, nó thể hiện tính trung lập không làm tổn hại đến các hoạt động
kinh tế.
2. Ảnh hưởng kinh tế khi phạm vi áp dụng thuế GTGT bị hạn chế: Đây là
vấn đề thứ hai mà chúng tôi muốn đề cập đến trong bài viết này. Điều 2
trong Luật thuế GTGT quy định: «Hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, trừ các đối
tượng quy định tại điều 4 của Luật này ». Điều 4 lại quy định tới 26 loại
HHDV không chịu thuế GTGT[3]. Điều này cho thấy đối tượng chịu thuế theo
luật định ở nước ta còn rất hạn chế. Tình trạng này cũng tương tự như ở
Pháp khi thuế GTGT mới được thực hiện năm 1954, phạm vi áp dụng của nó cũng
còn rất hẹp, lĩnh vực nông nghiệp, tài chính, ngân hàng đều không chịu thuế
GTGT. 14 năm sau, với cải cách thuế ngày 1 tháng 1 năm 1968, phạm vi áp
dụng của thuế GTGT mới được mở rộng ra hầu hết các lĩnh vực của nền kinh
tế. Việt Nam cũng đang thực hiện cải cách thuế GTGT theo hướng này, bởi đây
là một xu hướng phù hợp và cần thiết. Ông Nguyễn Xuân Ninh, Tổng cục trưởng
Tổng cục Thuế đã khẳng định điều này trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên
Tạp chí Tài chính số tháng 8 và tháng 9 năm 2002. Trong Hội thảo về thuế
GTGT do Vụ Chính sách tài chính Việt Nam tổ chức vào tháng 1 năm 2000 với
sự tham gia của Vụ chính sách tài chính - Bộ Tài chính Nhật Bản cũng như
Hội thảo do Trường Đại học Kế toán – Tài chính Hà Nội tổ chức vào tháng 7
năm 2000 với sự tham gia của các chuyên gia Thụy Điển đã nhận định rằng
phạm vi áp dụng thuế GTGT hiện nay ở Việt Nam còn rất hạn chế, một trong
những hướng hoàn thiện là mở rộng diện chịu thuế. Đây là đánh giá của
chuyên gia các nước mà thuế GTGT đã được áp dụng từ rất lâu, ở Nhật Bản từ
năm 1989 và ở Thụy Điển từ năm 1969.
Vậy nếu như phạm vi áp dụng thuế GTGT bị hạn chế thì sẽ có những ảnh
hưởng kinh tế nào? Chúng ta xem xét ví dụ đơn giản hóa sau đây với 4 trường
hợp: (1) đánh thuế tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; (2)
đánh thuế 0% ở khâu bán lẻ; (3) miễn thuế ở khâu bán lẻ; (4) miễn thuế ở
khâu bán buôn.
Với số liệu ở bảng 1 chúng ta nhận thấy:
- Trường hợp (1) thực hiện cơ chế đánh thuế GTGT một cách hoàn chỉnh.
Lúc này người tiêu dùng phải chịu giá 330, trong đó thuế GTGT là 30, tức là
thuế suất thực tế đúng bằng thuế suất luật định (10%).
- Trường hợp (2) đánh thuế 0% ở khâu bán lẻ thì GTGT hoàn toàn không
chịu thuế, người tiêu dùng được lợi nhất, chỉ phải trả 300.
- Trường hợp (3) miễn thuế ở khâu bán lẻ, tức là không đánh thuế trên
GTGT ở khâu này mà chỉ đánh thuế trên GTGT của 2 khâu trước đó, khâu sản
xuất và bán buôn, thuế GTGT mà người tiêu dùng phải chịu là 20, tương ứng
mức thuế suất thực tế là 6.7%.
- Trường hợp (4) miễn thuế ở khâu bán buôn, người tiêu dùng phải chịu
giá 341, trong đó thuế GTGT là 41, cao hơn trường hợp đánh thuế hoàn chỉnh
là 11. Có kết quả này là do chuỗi khấu trừ thuế GTGT bị gián đoạn ở khâu
bán buôn dẫn đến tình trạng đánh thuế trùng lặp. Thuế suất thực tế trong
trường hợp này là 13.7%.
Như vậy, nếu muốn khuyến khích tiêu dùng một loại sản phẩm nào thì
việc miễn thuế GTGT chỉ nên áp dụng cho khâu bán lẻ, nếu là khâu trung gian
trước đó thì tác dụng sẽ ngược lại, người tiêu dùng sẽ phải chịu thuế cao
hơn. Qua ví dụ trên, chúng ta thấy miễn thuế là một hiện tượng rất nhạy cảm
và có thể tác động làm cho cơ cấu thuế trở nên khó hiểu. Tỷ lệ đánh thuế
thực tế có thể thay đổi rất lớn (từ 6.7% đến 13.7% trong ví dụ trên) có thể
bóp méo hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng, gây tác động xấu
đến nền kinh tế.

Bảng 1: Ví dụ về phạm vi áp dụng của thuế GTGT

" "Sản "Bán "Bán "Thuế "Giá có"
" "xuất "buôn "lẻ "GTGT "thuế "
" " " " "phải "GTGT "
" " " " "nộp " "
"(1) Đánh thuế tất cả các khâu " " " " " "
"1. Giá bán (chưa có thuế) "100 "200 "300 " " "
"2. Mua vào (chưa có thuế) "0 "100 "200 " " "
"3. Thuế GTGT đầu ra (10% của 1) "10 "20 "30 " " "
"4. Thuế GTGT đầu vào được khấu "0 "10 "20 " " "
"trừ (10% của 2) " " " " " "
"5. Thuế GTGT phải nộp (3-4) "10 "10 "10 "30 "330 "
"(2) Đánh thuế 0% ở khâu bán lẻ " " " " " "
"1. Giá bán (chưa có thuế) "100 "200 "300 " " "
"2. Mua vào (chưa có thuế) "0 "100 "200 " " "
"3. Thuế GTGT đầu ra (10% của 1, "10 "20 "0 " " "
"trừ bán lẻ) " " " " " "
"4. Thuế GTGT đầu vào được khấu "0 "10 "20 " " "
"trừ (10% của 2) " " " " " "
"5. Thuế GTGT phải nộp (3-4) "10 "10 "- 20 "0 "300 "
"(3) Miễn thuế ở khâu bán lẻ " " " " " "
"1. Giá bán (chưa có thuế) "100 "200 "300 " " "
"2. Mua vào (chưa có thuế) "0 "100 "200 " " "
"3. Thuế GTGT đầu ra (10% của 1) "10 "20 "0 " " "
"4. Thuế GTGT đầu vào được khấu "0 "10 "0 " " "
"trừ (10% của 2) " " " " " "
"5. Thuế GTGT phải nộp (3-4) "10 "10 "0 "20 "320 "
"(4) Miễn thuế ở khâu bán buôn " " " " " "
"1. Giá bán (chưa có thuế) "100 "210 "310 " " "
"2. Mua vào (chưa có thuế) "0 "100 "210 " " "
"3. Thuế GTGT đầu ra (10% của 1) "10 "0 "31 " " "
"4. Thuế GTGT đầu vào được khấu "0 "0 "0 " " "
"trừ (10% của 2) " " " " " "
"5. Thuế GTGT phải nộp (3-4) "10 "0 "31 "41 "341 "


Nguồn : Trích ví dụ của Ngân hàng Thế giới. 1995. Thuế suất thuế GTGT
là 10%
3. Thuế suất thuế GTGT: Đây là vấn đề rất quan trọng mà chúng tôi muốn
đề cập đến, vì thuế suất là linh hồn của mỗi sắc thuế, thể hiện mục đích
điều chỉnh của mỗi sắc thuế.
Nếu xem xét thuế suất thuế GTGT áp dụng trong các nước thuộc Cộng đồng
chung Châu Âu (Bảng 2), chúng ta nhận thấy có sự khác biệt rất lớn về thuế
suất thông dụng giữa các nước này. Nó thay đổi từ 15% đến 25%, trong đó mức
cao nhất áp dụng ở Đan Mạch và Thụy Điển, mức thấp nhất ở Lucxembua, mức
trung bình là 19.4%. Mức thuế suất ưu đãi cũng chênh lệch rất lớn giữa các
nước, thay đổi từ 5% đến 12.5%. Mức thuế suất ưu đãi có 6 nước áp dụng thay
đổi từ 2.1% đến 4.2% và mức thuế suất 0% có 7 nước áp dụng. Nếu không kể
mức 0%, đa số các nước áp dụng 2 - 3 mức thuế suất, trong đó một mức phổ
thông và 1 – 2 mức ưu đãi hoặc đặc biệt ưu đãi.

Bảng 2: Thuế suất thuế GTGT ở các nước Cộng đồng chung Châu Âu năm 2000

"Tên nước "Thuế suất thuế GTGT "
" "Thuế suất phổ"Thuế suất ưu"Thuế suất ưu"Thuế suất 0%"
" "thông "đãi "đãi đặc biệt" "
"Đức "16 "7 " " "
"Áo "20 "10; 12 " " "
"Bỉ "21 "6 " "X "
"Đan Mạch "25 " " "X "
"Tây Ban Nha "16 "7 "4 " "
"Phần Lan "22 "8; 17 " "X "
"Pháp "19.6 "5.5 "2.1 " "
"Hy Lạp "18 "8 "4 " "
"Ái Nhĩ Lan "21 "12.5 "4.2 "X "
"Ý "20 "10 "4 "X "
"Lucxembua "15 "6 "3 " "
"Hà Lan "17.5 "6 " " "
"Bồ đào Nha "17 "5; 12 " " "
"Anh "17.5 "5 " "X "
"Thụy Điển "25 "6; 12 " "X "


Nguồn: Hội đồng Thuế. Thuế GTGT - Báo cáo thứ 19 gửi Tổng thống Pháp.
2001
Bao nhiêu mức thuế và những mức thuế nào là phù hợp? Điều này phụ
thuộc vào mục đích của chính sách thuế và khả năng của đối tượng chịu thuế
trong từng quốc gia vào từng giai đoạn phát triển của nó. Đối với thuế
GTGT, mức thuế suất cần phù hợp với khả năng chịu thuế của người tiêu dùng.
Ở Việt Nam, đã có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Tuy nhiên, nhiều
chuyên gia đã đề xuất 2 mức thuế suất là 5% và 10% (không kể mức 0%). Trước
hết chúng ta có thể trích dẫn nhận định quan trọng của GS.TSKH. Tào Hữu
Phùng. Theo Ông, mức thuế suất 10% hiện nay là quá cao so với mức thu nhập
của người tiêu dùng Việt Nam, do vậy nên áp dụng thuế suất phổ thông là 5%
cho HHDV thông dụng và mức 10% cho các đối tượng khác[4]. Vụ Chính sách tài
chính của Bộ Tài chính cũng cho rằng trước mắt nên áp dụng thuế suất phổ
thông là 5%. Tác giả Bùi Văn Trịnh và Trương Đông Lộc trong bài viết của
mình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số tháng 3 năm 2001 cũng chia sẻ
cùng quan điểm này[5]. Chúng tôi cũng đồng tình với các ý kiến vừa nêu vì
hai lý do sau đây:
- Thứ nhất, hai mức thuế là phù hợp vì nó đơn giản, rõ ràng, đảm bảo
dễ thực hiện và tránh được hiện tượng trốn thuế. Đây cũng là xu hướng trong
áp dụng thuế GTGT tại các nước trên thế giới.
- Thứ hai, thu nhập của đa số dân cư ở nước ta còn thấp, khả năng chịu
thuế của họ thấp, hai mức thuế suất 5% và 10% mặc dù là tương đối thấp so
với các nước khác nhưng là phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.
Tóm lại, thuế GTGT là một loại thuế tiêu dùng tiến bộ đã được nhiều
nước trên thế giới áp dụng do nó có nhiều ưu điểm mà đặc biệt quan trọng là
nó khắc phục được vấn đề đánh thuế trùng lặp của thuế DT trước đây. Tuy
nhiên, ở Việt Nam đối tượng chịu thuế theo luật định vẫn còn hạn chế. Điều
này sẽ tác động lên hành vi của người tiêu dùng và người sản xuất, lên cung
và cầu trong nền kinh tế. Thậm trí, trong những trường hợp nhất định nó có
thể gây ra những tác động tiêu cực. Do vậy, để có thể phát huy được những
ưu điểm của thuế GTGT, nên thu hẹp diện miễn thuế, mở rộng phạm vi áp dụng
thuế, chỉ nên sử dụng miễn thuế như một công cụ điều tiết tiêu dùng trong
những trường hợp giới hạn. Hai mức thuế suất 5% và 10% (không kể mức 0%) là
phù hợp trong điều kiện của người tiêu dùng hiện nay ở nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính, Tổng Cục Thuế. Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về
thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi bổ sung. Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội (1-2001)
2. Bùi Đường Nghiêu. Thuế GTGT ở Việt Nam - Những bất cập và ảnh hưởng
khi áp dụng. Tạp chí Tài chính (10/1998)14-16.
3. Nguyễn Khắc Thành & Richard Irwin. Cần hiểu đúng về thuế VAT. Miễn
thuế và thuế suất 0% có giống nhau không?. Tạp chí Tài chính
(5/1997) 34-35.
4. TS. Vũ Công Ty & Hoàng Thị Thúy Nguyệt. Người sản xuất và người
tiêu dùng, ai là người chịu thuế ?. Tạp chí Tài chính (2/2000) 33 -
35.
5. GS.TSKH. Tào Hữu Phùng. Một số ý kiến bổ sung, sửa đổi Luật thuế
GTGT. Diễn đàn doanh nghiệp. Hà Nội 27/7/2000.
6. TS. Vũ Công Ty. Thuế GTGT- Cần xử lý kịp thời những bất hợp lý. Tạp
chí Tài chính (12/1999)30-31.
7. Bùi Văn Trịnh & Trương Đông Lộc. Thuế GTGT - những thành công và
tồn tại qua hai năm thực hiện. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế 274
(3/2001) 47-50.
8. Huỳnh Huy Quế. Thuế trong thời kỳ đổi mới. Tạp chí Tài chính
(3/2000)11-14.
9. Lý Phương Duyên & Lê Thanh Hà. Bàn về đối tượng và thuế suất trong
dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT. Tạp
chí Tài chính (3/2003). 29-31.


THEORETICAL AND PRACTICAL ASPECTS
OF VALUE - ADDED TAX IN VIETNAM

Phan Thi Minh Ly, Lai Xuan Thuy

College of Economics, Hue University





SUMMARY

VAT is a modern consumption tax, applied in many countries worldwide
including Vietnam. It has many advantages, especially it can overcome
double taxation. However, the taxable items in Vietnam are still limited,
which can affect both consumers and producers behavior, and also the demand
and supply of taxable goods. In some cases, this may have negative effects
on the economy. Therefore, in order to realise the VAT advantages, tax
exemption should be narrowed, while taxable items should be widened. Tax
exemption should be used only as a regulator tool and applied limitedly
only in certain cases. The two tax rates of 5% and 10% are reasonable in
the current contexts of Vietnam.








-----------------------
[1] Theo nguÓ-n sÑ- liÇ-u cç-a Ngân hàng Th¿- giÛ-i
[2] LIGER. Qu£-n lý thu¿- các doanh nhgiÇ-p vë-a và nhÏ- : mÙ-t sñ- huyÁ-n
bí. Lu­-n vn ti¿-n sù- nm 1987. ¡-i hÍ-c Rennes 1, Ph Theo
nguồn số liệu của Ngân hàng Thế giới
[3] LIGER. Quản lý thuế các doanh nhgiệp vừa và nhỏ : một sự huyền bí. Luận
văn tiến sỹ năm 1987. Đại học Rennes 1, Pháp
[4] Luật thuế GTGT. Thông qua Quốc hội ngày 10 tháng 5 năm 1997. Điều 2 và
4.
[5] GS.TSKH. Tào Hữu Phùng. Một số ý kiến sửa đổi, bổ sung Luật thuế GTGT.
Diễn dàn doanh nghiệp. Hà Nội, tháng 7 năm 2000.
[6] Bùi Văn Trịnh & Trương Đông Lộc. Thuế GTGT - Những thành công và tồn
tại qua hai năm thực hiện. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 274 – tháng 3 năm
2001. Trang 47-50.
Lihat lebih banyak...

Comentarios

Copyright © 2017 DATOSPDF Inc.